Amaryl 4Mg
Tên thuốc: Amaryl 4Mg
Thương thiệu: AVENTIS
Xuất xứ thương hiệu: Việt Nam
Quy cách: Hộp 3 vỉ x 10 viên
Mã sản phẩm: 00000667
Mô tả
Amaryl 4mg dạng viên nén do Công ty TNHH Sanofi-Aventis Việt Nam sản xuất có thành phần chính là Glimepirid, là loại thuốc có tác dụng điều trị bệnh tiểu đường.
Thành phần
- Thành phần mỗi viên nang gồm:
- Dược chất chính: Glimepirid 4mg
- Tá dược: Lactose, Natri Starch Glycolat, Povidon K25, Cellulose vi tinh thể PH 101, Magnesi Stearat, màu đỏ tía indigo carmine nhôm (E123) (Amaryl 4mg).
- Loại thuốc: Thuốc điều trị đái tháo đường
- Dạng thuốc và hàm lượng: Viên nén, Amaryl 4mg.
Công dụng
Chỉ định
Amaryl 4mg được chỉ định như một trị liệu phụ trợ cho việc ăn kiêng và tập thể dục để giảm đường huyết trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2 ở người lớn mà việc ăn kiêng và tập thể dục đơn thuần không thể kiểm soát được tình trạng tăng đường huyết.
Amaryl 4mg có thể sử dụng chung với Metformin khi ăn kiêng, tập thể dục, và dùng Amaryl hoặc Metformin đơn thuần không kiểm soát được đường huyết một cách thỏa đáng. Amaryl 4mg còn được chỉ định sử dụng phối hợp với insulin để giảm đường huyết trên bệnh nhân không thể kiểm soát tình trạng tăng đường huyết khi ăn kiêng và tập thể dục kết hợp với việc uống thuốc giảm đường huyết.
Sử dụng phối hợp Glimepiride và Insulin có thể làm tăng khả năng hạ đường huyết.
Dược lực học
Glimepirid là chất có hoạt tính hạ đường huyết dùng đường uống thuộc nhóm Sulfonylurea.
Thuốc được dùng trong bệnh đái tháo đường không lệ thuộc insulin.
Ở cả người khỏe mạnh và bệnh nhân đái tháo đường type 2, glimepirid giảm nồng độ đường huyết, chủ yếu tác động bằng cách kích thích sự phóng thích insulin ở tế bào beta tuyến tụy. Tác động này có ưu thế dựa trên sự cải thiện đáp ứng của tế bào beta tuyến tụy cho việc kích thích glucose sinh lý. Khi đạt mức giảm glucose máu tương ứng, việc dùng liều thấp glimepirid cho động vật và người khỏe mạnh có thể gây ra sự phóng thích một lượng insulin ít hơn so với glibenclamide. Thông tin này cho thấy sự tồn tại của tác động ngoài tụy của glimepirid (làm nhạy cảm insulin và bắt chước insulin).
Hơn nữa, so với các sulfonylurea khác, glimepirid có tác động ít hơn trên hệ tim mạch. Nó làm giảm sự kết tập tiểu cầu (dữ liệu trên động vật và phòng thí nghiệm) và dẫn đến một sự giảm đáng kể sự tạo thành mảng xơ vữa (dữ liệu trên động vật).
Cũng như các sulfonylurea khác, tác dụng của thuốc dựa trên sự gia tăng tính đáp ứng của tế bào beta tuyến tụy đối với tác nhân kích thích glucose sinh lý. Ngoài ra, glimepirid dường như có những tác dụng ngoài tuy rõ rệt như ở các sulfonylurea khác.
Sự phóng thích insulin
Sulfonylurea điều hòa sự phân tiết insulin bằng cách đóng kênh kali nhạy cảm với ATP trên màng tế bào beta. Glimepirid đóng kênh kali làm khử cực tế bào beta, và qua việc mở kênh calci, làm tăng dòng calci đi vào trong tế bào.
Điều đó dẫn đến phóng thích insulin thông qua hiện tượng xuất bào.
Glimepirid gắn ở một tốc độ trao đổi cao với protein trên màng tế bào beta, protein này kết hợp với kênh kali nhạy cảm ATP khác với vị trí gắn kết sulfonylurea thông thường.
Glimepirid thường gắn và tách khỏi protein gắn kết nhanh hơn glibenclamide. Do đặc điểm tần suất trao đổi nhanh này của glimepirid với protein gắn kết giúp cho tác động làm tăng nhạy cảm với glucose và bảo vệ tế bào beta từ việc không nhạy cảm và suy kiệt sớm.
Hoạt tính ngoài tụy
Các tác dụng ngoài tụy là ví dụ của sự cải thiện tính nhạy cảm của các mô ngoại biên đối với insulin và giảm thu nạp insulin ở gan.
Tác động làm tăng nhạy cảm insulin: Glimepirid làm tăng hoạt động bình thường của insulin trên việc thâu nhận glucose ở ngoại vi (dữ liệu trên người và động vật).
Tác động bắt chước insulin: Glimepirid bắt chước hoạt động của insulin trên sự thu nạp glucose ngoại vi và sản xuất glucose ở gan. Sự thâu nhận glucose ngoại vi xảy ra bởi sự vận chuyển glucose vào trong tế bào cơ và tế bào mỡ qua các protein vận chuyển đặc biệt, nằm trên màng tế bào. Sự vận chuyển glucose ở những mô này là bước hạn chế tốc độ trong việc sử dụng glucose. Glimepirid làm tăng rất nhanh số phân tử vận chuyển glucose có hoạt tính trên màng bào tương của tế bào cơ và mỡ, kích thích sự thu nạp glucose.
Glimepirid làm tăng hoạt tính của phospholipase C đặc hiệu với glycosyl phosphatidylinositol, vốn có tương quan với sự tổng hợp lipid và tổng hợp glycogen do thuốc gây nên trong tế bào cơ và mỡ tách rời. Do đó, nồng độ AMP vòng trong tế bào giảm, gây ra một sự giảm hoạt động của protein kinase A; điều này làm cho kích thích chuyển hóa glucose.
Glimepirid ức chế sự sản xuất glucose ở gan bằng cách tăng nồng độ fructose-2,6 bisphosphate nội bào, đến lượt nó chất này lại ức chế sự tân sinh đường.
Những tác động trên kết tập tiểu cầu và sự tạo thành mảng xơ vữa: Glimepirid làm giảm sự kết tập tiểu cầu trong phòng thí nghiệm và trên người. Tác động này có thể do kết quả của sự ức chế chọn lọc của men cyclo-oxygenase chịu trách nhiệm tạo thành thromboxan A, một yếu tố kết tập tiểu cầu nội sinh quan trọng. Glimepirid làm giảm đáng kể sự tạo thành mảng xơ vữa ở động vật. Cơ chế này đang được làm sáng tỏ.
Tác động trên tim mạch: Qua những kênh Kali nhạy cảm với ATP (xem ở trên), sulfonylurea cũng có tác động trên tim mạch. So với các sulfonylurea thông thường, glimepirid cũng có tác động trên hệ tim mạch ít hơn (dữ liệu trên động vật). Điều này có thể được giải thích bản chất đặc hiệu của sự tương tác với protein gắn kết với kênh Kali nhạy cảm ATP.
Đại cương
Trên người khỏe mạnh, liều uống tối thiểu hữu hiệu vào khoảng 0,6 mg. Tác dụng của glimepiride phụ thuộc liều dùng và có thể lặp lại được. Đáp ứng sinh lý khi vận động thể lực cấp thời, giảm phân tiết insulin, vẫn hiện diện khi dùng glimepirid.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa về tác dụng khi thuốc được dùng trước bữa ăn 30 phút hay ngay trước bữa ăn. Trên bệnh nhân đái tháo đường, có thể đạt được sự kiểm soát chuyển hóa tốt suốt 24 giờ với một liều duy nhất trong ngày.
Mặc dù trên người khỏe mạnh chất chuyển hóa hydroxy của glimepirid làm giảm đường huyết ở mức nhẹ nhưng có ý nghĩa, nhưng đây chỉ là một phần nhỏ trong tổng tác dụng của thuốc.
Điều trị phối hợp với Metformin
Trong một nghiên cứu, người ta đã chứng minh liệu pháp glimepirid dùng chung với metformin cải thiện được sự kiểm soát chuyển hóa so với metformin dùng đơn độc trên bệnh nhân không được kiểm soát thỏa đáng với liều metformin tối đa.
Điều trị phối hợp với insulin
Số liệu về điều trị phối hợp với insulin còn hạn chế. Trên bệnh nhân không được kiểm soát thỏa đáng với liều glimepirid tối đa, có thể bắt đầu dùng liệu pháp phối hợp với insulin. Trong hai nghiên cứu, phác đồ phối hợp đạt được sự cải thiện kiểm soát chuyển hóa giống như dung insulin đơn độc; tuy nhiên, trong liệu pháp phối hợp liều trung bình của insulin thường thấp hơn.
Hiệu quả lâm sàng/nghiên cứu lâm sàng
Một nghiên cứu lâm sàng có nhóm đối chứng (glimepirid dùng đến 8mg mỗi ngày hay lên đến 2.000 mg metformin mỗi ngày) trong suốt 24 tuần đã được thực hiện trên 285 trẻ em bị đái tháo đường tuýp 2 được chọn ngẫu nhiên (từ 8-17 tuổi). Cả glimepirid và metformin cho thấy một sự giảm đáng kể HbA1c so với khởi đầu. Không có sự khác biệt đáng kể được quan sát giữa 2 nhóm điều trị. Glimepirid không chứng minh được không kém hơn so với metformin. Theo dõi nhóm điều trị bằng glimepirid, không có những quan ngại về an toàn mới nào được lưu ý trên bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 trẻ em so với bệnh nhân người lớn. Không có dữ liệu an toàn và hiệu quả dài hạn trên bệnh nhân trẻ em.
Dược động học
Hấp thu: Sau khi uống, Glimepirid được hấp thụ hoàn toàn. Ăn uống không ảnh hưởng có ý nghĩa đến sự hấp thu, tốc độ hấp thu chỉ giảm nhẹ. Nồng độ cực đại trong huyết thanh (Cmax) đạt được sau khi uống khoảng 2,5 giờ (trung bình 0,3 mg/ml khi dùng nhiều liều 4 mg mỗi ngày) và có một sự tương quan tuyến tính giữa liều dùng với Cmax và AỤC (diện tích dưới đường cong thời gian/nồng độ).
Phân bố: Glimepirid có thể tích phân bố rất nhỏ (khoảng 8,8 lít) xấp xỉ bằng thể tích phân bố albumin, gắn nhiều với protein (>99%),và có độ thanh thải thấp (khoảng 48 ml/phút).
Trên động vật, Glimepirid được bài tiết trong sữa. Glimepirid đi qua nhau thai. Tỉ lệ thuốc đi qua hàng rào máu-não thấp.
Biến đổi sinh học và thải trừ: Thời gian bán hủy trung bình chủ yếu, vốn có ý nghĩa đối với nồng độ trong huyết thanh khi dùng nhiều liều, vào khoảng 5 đến 8 giờ. Sau khi dùng liều cao, thời gian bán hủy hơi dài hơn.
Sau khi uống một liều duy nhất glimepirid được đánh dấu phóng xạ, 58% hoạt tính phóng xạ được thu hồi trong nước tiểu, và 35% trong phân. Không phát hiện được chất chưa biến đổi nào trong nước tiểu. Hai chất chuyển hóa – có lẽ do chuyển hóa ở gan – được phát hiện trong nước tiểu và phân: dẫn chất hydroxy và dẫn chất carboxy. Sau khi uống glimepirid, thời gian bán thải sau cùng của những chất chuyển hóa này, theo thứ tự là 3 đến 6 giờ và 5 đến 6 giờ.
So sánh khi uống liều duy nhất và uống nhiều liều trong ngày không thấy sự khác biệt có ý nghĩa về dược động học, và độ biến thiên trong mỗi cá thể rất thấp. Không thấy sự tích lũy thuốc có ý nghĩa.
Dược động học ở nam và nữ tương tự nhau, cũng như ở bệnh nhân trẻ và bệnh nhân cao tuổi (trên 65 tuổi). Trong một nghiên cứu nhãn mở, dùng một liều đơn thuần trên 15 bệnh nhân có suy thận, glimepirid 3 mg được dùng ở 3 nhóm bệnh nhân có mức độ thanh thải creatinin (CLcr) trung bình khác nhau (Nhóm I, CLcr=77,7 mL/phút, n=5 BN), (Nhóm II, CLcr=27,4 mL/phút, n=3 BN), và (Nhóm III, CLcr=9,4 mL/phút, n=7 BN). Glimepirid được dung nạp tốt ở tất cả 3 nhóm. Ở bệnh nhân có độ thanh thải creatinin thấp, có một khuynh hướng tăng thải trừ glimepirid và nồng độ huyết thanh trung bình của glimepirid giảm, hầu hết cho rằng do bởi một sự thải trừ glimepiride nhanh do sự gắn kết glimepirid với protein huyết thanh thấp. Sự thải trừ hai chất chuyển hóa qua thận suy giảm.
Kết quả từ một nghiên cứu chuẩn đa liều được thực hiện 16 bệnh nhân ĐTĐ không phụ thuộc insulin (ĐTĐ tuýp 2) có suy thận dùng liều thay đổi từ 1-8 mg mỗi ngày trong 3 tháng cho thấy giống như kết quả quan sát được sau khi dùng một liều mỗi ngày.Tất cả những bệnh nhân có độ thanh thải thấp hơn 22ml/phút được kiểm soát đường huyết tốt với chế độ chỉ dùng 1 mg mỗi ngày. Nhìn chung, nguy cơ tích lũy không tăng thêm trên những bệnh nhân này.
Chưa biết là glimepirid có thể thẩm phân không. Dược động học trên 5 bệnh nhân không đái tháo đường sau khi mổ ống dẫn một tương tự như ở người khỏe mạnh.
Ở động vật, glimepirid được bài tiết qua sữa.
Liều dùng
Cách dùng
Nên uống thuốc viên Amaryl 4mg với một lượng nước vừa đủ (khoảng 1/2 ly).
Liều dùng
Amaryl 4mg được dùng bằng đường uống để điều trị đái tháo đường không phụ thuộc insulin (đái tháo đường tuýp 2) ở người lớn. Trên nguyên tắc, liều dùng Amaryl 4mg tùy thuộc nồng độ đường huyết mong muốn. Phải dùng liều glimepirid thấp nhất đủ để đạt được sự kiểm soát chuyển hóa mong muốn. Việc điều trị với Amaryl 4mg phải được bác sĩ khởi trị và theo dõi. Amaryl 4mg cần được uống đúng thời điểm trong ngày và đúng liều đã được kê toa.
Liều ban đầu và liều duy trì được xác định dựa trên kết quả kiểm tra glucose thường xuyên trong máu và nước tiểu. Việc theo dõi glucose trong máu và nước tiểu còn để phát hiện những trường hợp thất bại điều trị tiên phát hoặc thứ phát.
Liều ban đầu và chỉnh liều: Liều ban đầu thường dùng là 1 mg Amaryl 4mg mỗi ngày một lần. Nếu cần, có thể tăng liều. Khi tăng liều phải căn cứ vào việc theo dõi đường huyết đều đặn, và nên tăng từ từ, cách khoảng 1-2 tuần, và thực hiện từng bước như sau: 1mg, 2 mg, 3mg, 4mg, và trong một số trường hợp hạn hữu là 8 mg.
Liều dùng trên bệnh nhân đái tháo đường được kiểm soát tốt: Khoảng liều thường dùng trên bệnh nhân đái tháo đường được kiểm soát tốt là 1 đến 4mg Amaryl mỗi ngày. Chỉ có một số bệnh nhân phải dùng liều trên 6mg
Phân phối liều dùng: Thời điểm uống thuốc và phân phối liều dùng do bác sĩ quyết định, có tính đến lối sống hiện thời của bệnh nhân. Bình thường, mỗi ngày chỉ dùng một liều Amaryl là đủ.
Liều này cần được uống ngay trước bữa ăn sáng, hoặc nếu không ăn sáng thì uống ngay trước bữa ăn chính đầu tiên trong ngày. Điều quan trọng là không được bỏ bữa ăn sau khi uống Amaryl.
Chỉnh liều thứ phát: Khi việc kiểm soát đái tháo đường được cải thiện, sự nhạy cảm với insulin gia tăng, do đó nhu cầu glimepirid có thể giảm khi tiếp tục điều trị. Để tránh giảm đường huyết quá mức (hạ đường huyết), cần xem xét giảm liều hoặc ngưng dùng Amaryl đúng lúc.
Cũng cần xem xét chỉnh liều mỗi khi cân nặng hoặc lối sống của bệnh nhân thay đổi, hoặc có các yếu tố khác làm tăng tính gây hạ đường huyết hoặc nồng độ đường huyết tăng quá cao (tang đường huyết)
Thời gian điều trị: Điều trị với Amaryl thường là một điều trị lâu dài. Đổi từ thuốc đái tháo đường đường uống khác sang dùng Amaryl: Không có sự tương quan liều lượng chính xác giữa Amaryl với các thuốc chống hạ đường huyết khác. Khi dùng Amaryl để thay thế cho những thuốc đó, nên dùng liều ban đầu là 1 mg/ngày, ngay cả những bệnh nhân đang dùng thuốc hạ đường huyết đường uống khác với liều tối đa. Khi tăng liều Amaryl cần theo đúng những hướng dẫn trong phần “Liều ban đầu và chỉnh liều” ở trên. Nên xem xét hoạt lực và thời gian tác động của thuốc hạ đường huyết được dùng trước đó. Có thể cần tạm ngưng điều trị để tránh những hiệu ứng cộng lực có thể làm tăng nguy cơ hạ đường huyết.
Sử dụng phối hợp với metformin: Khi không thể kiểm soát nồng độ đường huyết một cách đầy đủ với liều tối đa hàng ngày của Amaryl hoặc thuốc chống đái tháo đường chứa metformin dung đơn độc, có thể dung chung hai thuốc này. Trong trường hợp đó, liều lượng thuốc đã dùng vẫn không thay đổi. Bắt đầu điều trị với thuốc thêm vào bằng liều thấp, tùy theo mức đường huyết mong muốn, rồi tăng dần cho đến liều tối đa hàng ngày. Nên bắt đầu điều trị phối hợp dưới sự giám sát y khoa chặt chẽ.
Sử dụng phối hợp với insulin: Khi không thể kiểm soát đường huyết đầy đủ với liều Amaryl tối đa hàng ngày, có thể đồng thời dùng chung với insulin. Trong trường hợp này, liều Amaryl hiện dùng vẫn không thay đổi. Bắt đầu điều trị insulin với liều thấp, sau đó tăng dần từng bước tùy theo mức đường huyết mong muốn. Nên bắt đầu điều trị phối hợp dưới sự giám sát y khoa chặt chẽ.
Nên theo dõi hiệu quả lâu dài bằng cách đo nồng độ HbA1c, ví dụ mỗi 3 -6 tháng một lần.
Có thể sử dụng Amaryl ngắn hạn trong những giai đoạn mất kiểm soát tạm thời trên bệnh nhân được kiểm soát tốt với chế độ ăn kiêng và tập thể dục.
Quần thể đặc biệt
Suy thận
Có ít thông tin hiện hành về sử dụng Amaryl trên bệnh nhân suy thận. Bệnh nhân suy thận có thể nhạy cảm hơn với tác dụng hạ đường huyết của Amaryl.
Trường hợp suy giảm chức năng thận, nên dò liều Amaryl đáp ứng theo đường huyết lúc đói, liều ban đầu chỉ dùng 1 mg/ 1 lần mỗi ngày. Liều có thể tăng lên, nếu nồng độ glucose huyết lúc đói vẫn cao. Nếu hệ số thanh thải creatinin dưới 22ml/phút, thường chỉ dùng 1 mg/1 lần mỗi ngày, không cần phải tăng hơn.
Làm gì khi dùng quá liều?
Quá liều Amaryl có thể dẫn đến hạ đường huyết nặng, đôi khi đe dọa sinh mạng, và cần nhập viện điều trị như là một biện pháp đề phòng. Quá liều có những phản ứng nặng là một trường hợp cấp cứu nội khoa và buộc phải được điều trị ngay và nhập viện.
Các cơn hạ đường huyết nhẹ thường có thể điều trị bằng carbohydrate dùng đường uống. Có thể cần phải điều chỉnh liều lượng, việc ăn uống và hoạt động thể lực. Các cơn nặng hơn kèm hôn mê, co giật hoặc tổn thương thần kinh phải được điều trị bằng glucagon (tiêm bắp hoặc tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch, ví dụ từ 0,5 đến 1mg glucagon) hay dung dịch glucose ưu trương (tĩnh mạch, ví dụ ở người lớn, truyền 40 ml dung dịch đường 20%). Nếu uống phải những liều lớn nguy hiểm đến tính mạng, cần phải giải độc (ví dụ bằng cách rửa dạ dày, dùng than hoạt tính).
Cần dùng carbohydrate kéo dài và theo dõi vì hạ đường huyết có thể tái diễn sau khi có vẻ đã hồi phục lâm sàng. Nồng độ đường huyết của bệnh nhân nên được giám sát chặt chẽ ít nhất 24 giờ. Trong những trường hợp nặng với tiến trình hạ đường huyết kéo dài, hoặc nguy cơ hạ đường huyết quay trở lại, tiếp tục theo dõi đường huyết trong vài ngày nữa.
Làm gì khi quên liều?
Nếu bạn quên một liều thuốc, hãy dung càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, nếu gần với liều kế tiếp, hãy bỏ qua liều đã quên và dùng liều kế tiếp vào thời điểm như kế hoạch. Không dùng gấp đôi liều đã quy định.
Tác dụng phụ
Rối loạn dinh dưỡng và chuyển hóa
Hạ đường huyết: Do hệ quả của tác động giảm đường huyết của Amaryl, hạ đường huyết có thể xảy ra và cũng có thể kéo dài.
Các triệu chứng có thể có của hạ đường huyết bao gồm nhức đầu, đói cồn cào, buồn nôn, ói mửa, uể oải, buồn ngủ, rối loạn giấc ngủ, bồn chồn, ưa gây gổ, kém tập trung, kích động và phản ứng, trầm cảm, lú lẫn, nói khó hoặc không nói được, rối loạn thị giác, run chân tay, dị cảm, rối loạn giác quan, choáng váng, không tự lực được, mất tự chủ, sảng, co giật, ngủ gà và mất trí giác dẫn đến hôn mê, thở nông, nhịp tim chậm. Ngoài ra, có thể có các dấu hiệu điều hòa nghịch giao cảm như vã mồ hôi, da lạnh và ẩm ướt, lo sợ, tim đập nhanh, tăng huyết áp, hồi hộp, đau thắt ngực, và loạn nhịp tim. Bệnh cảnh lâm sàng của cơn hạ đường huyết nặng có thể giống như đột quỵ. Triệu chứng hạ đường huyết hầu như luôn luôn mất dần khi chữa trị tình trạng hạ đường huyết.
Mắt: Có thể giảm thị lực tạm thời, nhất là khi bắt đầu điều trị, do thay đổi nồng độ đường huyết.
Đường tiêu hóa: Thỉnh thoảng có thể xảy ra các triệu chứng tiêu hóa như buồn nôn, ói mửa, cảm giác tức hoặc đầy bụng ở vùng thượng vị, đau bụng, và tiêu chảy,
Trong một số hiếm trường hợp, nồng độ men gan có thể tăng. Một số trường hợp cá biệt có thể suy chức năng gan (kèm ứ mật và vàng da) và viêm gan, dẫn đến suy gan có thể tiến triển suy gan đe dọa tính mạng nhưng có thể thoái triển nếu ngưng dùng Amaryl.
Máu: Có thể xảy ra những thay đổi nghiêm trọng về máu. Có thể xảy ra giảm tiểu cầu ở một số hiểm trường hợp, cá biệt có những trường hợp giảm bạch cầu, thiếu máu tán huyết hoặc giảm hồng cầu, giảm bạch cầu hạt, mất bạch cầu hạt và thiếu máu toàn dòng (do ức chế tủy xương).
Đã có ghi nhận sau lưu hành những trường hợp giảm tiểu cầu nặng vối số lượng tiểu cầu ít hơn 10,000 tế bào và ban xuất huyết giảm tiểu cầu (tần suất chưa biết rõ).
Các tác dụng không mong muốn khác
Đôi khi có thể xảy ra phản ứng dị ứng hoặc giả dị ứng, ví dụ dưới dạng mẩn ngứa, mề đay hoặc phát ban (đỏ da, phát ban dạng sởi hoặc ban sẩn), nếu phản ứng trên da dai dẳng nên ngưng dùng thuốc. Những phản ứng ấy có thể nhẹ nhưng cũng có thể trở nên nặng hơn và đi kèm với khó thở, tụt huyết áp, đôi khi dẫn đến sốc. Nếu nổi mề đay, phải báo ngay cho bác sĩ.
Trong những trường hợp cá biệt, có thể xảy ra giảm nồng độ natri trong huyết thanh, viêm mạch máu (viêm mạch dị ứng) và da tăng mẫn cảm với ánh nắng.
Nên hỏi ý kiến bác sĩ nếu để ý thấy bất kỳ tác dụng phụ nào được nêu trong tờ hướng dẫn này hoặc mọi tác dụng không mong muốn hoặc những thay đổi ngoài dự kiến khác.
Vì một số tác dụng ngoại ý (ví dụ hạ đường huyết nặng, thay đổi về máu, phản ứng dị ứng hoặc giả dị ứng nặng hoặc suy gan) trong một vài trường hợp trở nên nguy hiểm đến tính mạng, nên cần thiết báo ngay cho bác sĩ mỗi khi xảy ra các phản ứng đột ngột hoặc nặng, và không nên tiếp tục dùng thuốc mà không có sự hướng dẫn của bác sĩ.
Ngoài những tác dụng bất lợi của Amaryl được nêu trên đây, những tai biến dưới đây đã được báo cáo với các Sulfonylurea:
- Rối loạn chuyển hóa Porphyrin biểu hiện muộn trên da.
- Phản ứng rối loạn chuyển hóa porphyrin ở gan.
- Phản ứng giống Disulfiram.
- Hội chứng phân tiết hormone kháng lợi niệu (ADH) không thích hợp.
- Có gợi ý cho rằng những sulfonylurea này có thể làm tăng phản ứng ngoại biên của ADH và/hoặc tăng phóng thích ADH.